Thứ Sáu, 4 tháng 6, 2010

Hồi ức về VĂN TỐ công

Hồi ức về VĂN TỐ công
Jun 4, 2010 7:26 PMPublicPageviews 4 0



HỒI ỨC

GHI NHỚ VỀ
Hiển Tổ khảo: Tiền THÁI VĂN TỐ công
 Hiệu Cổ văn nhân (chiết tự chữ TỐ)
(Trong chữ Hán, chữ TỐ do 3 chữ CỔ, VĂN và bộ NHÂN ghép thành)
.Thiếu thời ở quê nhà:
Sinh ngày    tháng    năm Kỷ Sửu tức là ngày     tháng    năm 1889 tại quê nhà thôn Tân Mỹ, xã Tràng thành (nay là Hoa Thành). Huyện Yên Thành, Nghệ An
Mất ngày    tháng    năm 1956 tức ngày 22 tháng 7 năm Bính Thân hưởng thọ 68 tuổi.
Mộ táng tại Nghĩa trang họ Thái, xứ Cồn Sùng
Ông vốn có tư chất thông minh thiên phú, theo học với cha từ bé, nổi danh văn tài. Năm Mậu Ngọ đời Khải Định – tức năm 1918 -   Ông dự Khoa thi Hương đỗ Cử nhân trường Vinh, trở thành người phát khoa cho hàng Xã hàng Tổng sau 300 năm không có khoa bảng.
Năm sau Ông tiến kinh thi Hội khoa Kỷ Mùi -1919 -, qua 2 kỳ toàn chiếm điểm ƯU. Trước khi lên kinh ứng thí thì ở quê, thân sinh của Ông là Cụ Văn Thịnh ốm rất nặng, ông ra đi thi mà lòng dạ cứ bồn chồn về bệnh của Cha. Trong mấy ngày chờ kết quả vào điện thí, một đêm Ông nằm mơ thấy có tiếng người gọi gấp và đưa cho Ông một bộ áo đại tang. Tỉnh dậy Ông thấy mồ hôi ướt đầm và còn như nghe tiếng gọi văng vẳng của người Cha thân yêu. (Thời ấy giao thông, thư tín rất khó khăn, thông tin “hỏa tốc” từ quê nhà vào Huế có khi hàng tháng trời mới đến). Sáng hôm sau Ông kiên quyết bỏ thi về quê. Nghe tin đó Cụ Cao Xuân Dục là người Thịnh Mỹ, Diễn Châu, là Cử nhân xuất thân nhưng hiện làm đến Đông cấc học sĩ, là một trong tứ trụ Triều đình, quan cực phẩm trong triều gọi Ông đến và bảo: “Thầy nên suy nghĩ lại. Đông – Yên nhị huyện ta (Ngày trước Phủ Diễn Châu gồm 2 huyện là Đông thành và Yên thành, về sau huyện Yên thành tách riêng ra còn  huyện Đông thành cũ lấy tên là Phủ - sau này là huyện Diễn châu) từ mấy trăm năm người văn tài không thiếu nhưng không có ai đỗ đại khoa. Đây là Khoa thi Hội cuối cùng, với sức học của Thầy và kết quả hai kỳ vừa rồi thì chỉ mười ngày nữa Thầy có thể mang biển Tiến sĩ vinh qui về làm vẻ vang cho quê ta. Tôi xin bảo chứng cho Thầy là Thầy chưa hề nhận được tin dữ từ quê nhà, cứ yên tâm mà thi, không sợ bên Ngự sử đàn hạch đâu!”. Ngày xưa có lệ: Con cái có đại tang phải cư tang 3 năm, nếu trong thời gian cư tang mà lấy vợ, đi thi, đi nhận chức…sẽ coi là phạm tội bất hiếu, luật xử rất nặng mà xã hội cũng rất coi thường.
Ông Văn Tố trả lời: “Bẩm Cụ, không phải Tố này bỏ thi là sợ sau này bị đàn hặc, xét tội. Xưa nay Tố vẫn không tin mộng mị tào lao nhưng vì chuyện này quá lớn, thà tin là có không nên tin là không. Không đỗ được đại khoa thì đạo học của Tố cũng chẳng mất mát gì, nhưng Cha mất mà kẻ làm con trưởng không về dứng ra mai táng thì đạo hiếu không còn”. Và Ông lập tức trẩy về quê. Về đến gần nhà thì nghe tin Cha mất. Đấy là khoa thi Hội cuối cùng, từ đó về sau Triều đình nhà Nguyễn theo yêu cầu của chính quyền Pháp  bỏ các khoa thi Hán học, nên về sau Ông không còn cơ hội đỗ đại khoa nữa.
Bản tính tiêu dao phóng túng, không thích quan trường nên sau khi cư tang 3 năm Ông không vẫn không trình diện để ra làm quan cho Triều đình Nguyễn mà vẫn chỉ ở nhà uống rượu làm thơ, dạy học trò và làm thuốc Bắc.
Vốn nghề Y học nhà họ Thái đã được gia truyền, từ đời tiên tổ VĂN DOANH công (đời thứ sáu) đã từng được tặng danh là Lương y sư biểu. truyền đến đời nội tổ DANH LÂN công và được phát dương quang đại trong đời tiên khảo VĂN THỊNH công (đời thứ chín). VĂN TỐ công bản tính nghiêm cẩn lại thông minh ham học hỏi tìm tòi nghiên cứu sách y học cổ, nghe đâu có sách quý là ông tìm đến năn nỉ mượn chép về. Ông lại tỉ mỉ ghi lại kinh nghiệm thực tiễn của từng trường hợp bệnh hiểm nghèo đã gặp và đã chữa trị khỏi hay không khỏi, khỏi nhanh hay chậm, chép thành một thiên Nghiệm phương  để tự mình học tập thêm và truyền dạy cho các học trò. (Thiên Nghiệm phương này được nhiều học trò của Ông chép lại, bản gốc về sau truyền cho con trai thứ ba của Ông cũng theo nghề Y là Thái Phi Hùng ). Chẳng bao lâu tiếng tăm nghề Y của Ông đã truyền khắp vùng Thanh Nghệ Tĩnh và lan cả các tỉnh phía Bắc (Phu nhân của Ông là trưởng nữ của một thương gia họ Vũ ở Thái Bình vào làm ăn ở Nghệ An). Nhiều đại gia ở Bắc có bệnh hiểm nghèo, nghe tiếng đã lặn lội về tận quê mời Ông ra Bắc bốc thuốc trị bệnh. Chữa xong bệnh, có nhà hào phú đã khẩn khoản tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất mời ông ra Bắc hành nghề nhưng Ông nhất thiết từ chối quay về bản quán.
Thời kỳ 15 năm ở Huế:
Năm 1930, sau phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, thực dân Pháp và Triều đình Huế e sợ các nhà khoa bảng Nghệ Tĩnh ở lại quê nhà mà không làm quan cho Triều đình Huế thì có thể tạo nhiều ảnh hưởng trong phong trào chống Pháp của nhân dân, gây bất lợi cho chính quyền thuộc địa. Vì vậy Triều đình Huế đã hạ chiếu triệu Ông cũng như các vị khoa bảng khác vào Kinh đô Huế làm quan cho tiện bề giám sát. Sau nhiều lần dâng biểu từ tạ không được chấp thuận, năm Ông đành vào nhận chức Hàn Lâm Biên tu ở Bộ Lại – Lễ 
(Lại bộ là Bộ Nội vụ, Lễ bộ là Bộ Văn hóa nhưng thời đó chỉ có Lục bộ : Lại - Nội vụ, Hộ – Tài chính – Lễ - Văn hóa, Binh – Quốc phòng, Hình – Tư pháp, Công – Công nghiệp và Xây dựng. Do mới có thêm Bộ Học – Giáo dục – trước đây trong Lục bộ không có cho nên Triều đình chủ trương ghép hai Bộ Lại –Lễ làm một).
Vừa nhậm chức, Ông được phong hàm lục phẩm (tương đương cấp bậc với chức Tri huyện).
Ông chỉ làm việc chiếu lệ ở công đường, về nhà thường uống rượu làm thơ với bạn tri kỷ đồng châu Nghệ Tĩnh hay mấy đồng liêu hợp đạo người Quảng. Được ít lâu khi điều kiện sinh hoạt ổn định, Ông đưa người em là THÁI VĂN SIÊU vào Huế đứng mở một hiệu thuốc Bắc do Ông hỗ trợ về tài chính  và chủ trì việc thăm mạch kê đơn.
Được ít lâu tiếng tăm của hai anh em danh y họ Thái người Nghệ đã vang khắp kẻ chợ vùng quê chốn kinh thành không phải chỉ vì do y thuật mà còn bởi y đức và y đạo của hai Thầy. Hầu như các quyến thuộc nhà quan và các nhà tài phú ở kinh thành, ai cũng muốn tìm đến y đường họ Thái thăm mạch kê đơn, người có bệnh thì mong chữa bệnh, ngay cả người không có bệnh cũng tin tưởng muốn cậy Thầy tìm phương bồi bổ cơ thể khí huyết. Do đó sinh ý của y đường rất phát triển.
VĂN TỐ công có chủ trương rất rõ ràng trong việc chữa trị cho các hàng bệnh nhân khác nhau : Lấy của người giàu giúp kẻ nghèo. Với nhà quan, nhà giàu thì Ông lấy tiền nhưng gặp bệnh nhân nghèo thì không những Ông không lấy tiền công thăm mạch bốc thuốc mà thường còn cho tặng cả thuốc thang. Thậm chí có con bệnh quá nghèo Ông còn chu cấp cả tiền ăn uống sinh hoạt trong thời gian lưu lại thành phố để chữa bệnh.
Tôi còn nhớ câu chuyện Ông dạy người học trò thân thiết của Ông là Hồng Tâm – về sau Ông này cũng trở thành một danh y và là chủ một nhà thuốc lớn ở Huế, y đường này có một phương thuốc gia truyền nổi tiếng khắp cả nước là Thuốc dán Con Rắn. Chú Hồng Tâm có lần thắc mắc hỏi Ông: “Tại sao hai con bệnh này bệnh căn bệnh chứng hoàn toàn giống nhau mà thang thuốc Thầy kê cho hai người lại khác nhau xa chừng. Một thang đáng giá hàng đồng bạc (đồng bạc Đông dương bằng 10 phờ-răng Pháp lúc đó, có giá trị rất cao : 1 tạ gạo giá chỉ 1 đồng) còn thang kia chỉ đáng mấy xu”. Ông cười và trả lời:”Thuốc là để chữa bệnh, vậy thì đắt rẻ miễn chữa khỏi bệnh là quý. Trong một thang thuốc có quân thần tá sứ, vị chính để chữa bệnh thường chỉ có một vài nhưng phụ gia có khi hàng chục vị. Người giàu có họ đã dùng nhiều thuốc quý, thuốc mạnh quen rồi, nay dùng phương nhẹ hơn thì chưa chắc trị được bệnh, mặt khác sức đề kháng của họ kém nên phải gia thêm nhiều vị thuốc bổ, thuốc dẫn, ngược lại với người nghèo thường không được dùng thuốc men nên nay gặp đúng thuốc là hiệu nghiệm ngay. Vả chăng nếu con cắt cho người nghèo thang thuốc đắt tiền, bằng tiền ăn cả nhà người ta trong vài tháng thì họ không thể uống thuốc mà như vậy ắt là không khỏi được bệnh. Ngược lai, các nhà hào phú thấy thang thuốc rẻ tiền quá thì dù không nói ra nhưng lòng vẫn xem thường có khi không thèm uống vậy thì cũng không khỏi bệnh!”
Ngoài việc làm thuốc chữa bệnh giúp dân nghèo, trong công việc mỗi khi có điều kiện Ông đề sẵn lòng bỏ công bỏ sức bỏ cả tiền bạc ra để giúp đỡ người dân. Năm Nhâm Ngọ (1942) thôn dân ở xã Quảng Nạp, huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình bị bọn cường hào cậy quyền thế gian lận trong việc chia công điền công thổ hàng năm. Không chịu nổi bất công, dân thôn đã nhiều lần làm đơn từ kiện lên huyện lên tỉnh nhưng đều bị bọn cường hào đút lót quan trên dập đi không xét. Thôn dân nhất quyết không chịu thua, cử bô lão thay mặt dân làm đơn mang vào tận kinh đô xin xét xử. Tình cờ  gặp mấy cố lão vạ vật ngoài đường phố, Ông hỏi thăm biết đầu đuôi câu chuyện liền cho họ về nhà tá túc và giúp cho họ biết đường đầu kiện. May mắn là công việc xem xét vụ kiện đó cũng thuộc phần hành của Bộ Lại – Lễ ( như là Bộ ghép Nội vụ – Văn hóa ngày nay) nên Ông tìm cách can thiệp đưa đến gặp  những quan lại chủ trì nghiêm minh và kết quả là dân làng thắng kiện. Dân oan thắng kiện muốn đền đáp nhưng Ông nhất thiết không nhận bất luận tiền nong quà cáp gì, ngay cả tiền nuôi cả đoàn bô lão trong hàng mấy tháng trời trong nhà. Cuối cùng họ trở về quê nhà, tạc một bức cuốn thư có 4 chữ đại tự : TỪ TÂM QUẢNG NẠP ý ca ngợi tấm lòng nhân từ bao dung rộng rãi của Ông và cũng có ý nghĩa là nhân từ đối với dân thôn Quảng Nạp mang vào tận kinh thành kính biếu. Bức cuốn thư đó hiện còn lưu giữ tại tư gia của tôi và tôi thường kể lại sự tích để cho con cháu đời sau học lấy tấm gương sáng của tiền nhân.
Vào dịp Tết năm Quý Mùi (1943) có một sự kiện có tác động đến công việc của Ông. Hồi đó Bà Từ Cung Thái hậu – Vợ vua Khải Định, Mẹ của Vua Bảo Đại – đang mắc một chứng bệnh nan y. Bà Từ cung không chịu chữa theo Tây y còn các quan  Thái y thì đã chạy chữa rất lâu mà hầu như đều bó tay. Viện trưởng Thái y viện hồi đó là một danh y họ Hoàng, người Quảng nam, Tiến sĩ xuất thân, bèn tiến cử VĂN TỐ công chữa bệnh cho Đức Bà.(Về chuyện tiến cử này có một giai thoại về một vụ đánh cá của hai danh y trong tiệc rượu cuối năm trong Triều đình – xin thuật lại vào một dịp khác)) Chẳng bao lâu chữa khỏi, cả Triều đều ca ngợi và Cụ Hoàng nhất quyết xin cáo hưu, nhường lại chức Thái y viện trưởng cho Ông. Triều đình phong Ông lên tước Quang lộc tự thiếu khanh đặc cách thăng lên tứ phẩm – hàm đường
(Trong quan chế nhà Nguyễn chia làm 9 phẩm, mỗi phẩm có tòng và chánh. Cấp xã, tổng có công thì được nhận hàm cửu phẩm, bát phẩm, cấp tri châu, tri huyện là lục phẩm, tri phủ hoặc Bố chánh, Án sát cấp tỉnh là ngũ phẩm. Từ bậc tứ phẩm trở lên thì được nhận hàm đường là quan cấp Tỉnh, cán bộ cao cấp, tứ phẩm là tương đương cấp tuần phủ – tương đương Phó chủ tịch tỉnh hoặc cấp Cục, Vụ trưởng bây giờ. Tổng đốc là tương đương cấp chủ tịch liên tỉnh hoặc tỉnh lớn như Sơn Hưng Tuyên tổng đốc, An Tĩnh tổng đốc v..v.. hoặc ở Triều thì bậc Thượng thư – Bộ trưởng- và đến cả Hiệp biện học sĩ, Cơ mật viện đại thần – tức  thành vên Hội đồng Tối cao - đều hàng nhị phẩm. Nhất phẩm Triều đình chỉ có bốn vi Tứ trụ: Cần chánh điện, Văn minh điện và Võ hiển điện đại học sĩ, cùng với Đông các đại học sĩ. Ở Nghệ Tĩnh ta xưa nay chỉ có Cụ Đông các Cao Xuân Dục  người Thịnh Mỹ, Diễn Châu cũng do Cử nhân xuất thần mà làm nên đến bậc bậc nhất phẩm Triều đình. Cụ Nguyễn Công Trứ là bậc kỳ tài văn võ song toàn lập nhiều công lao cho Triều đình có lúc đã thăng đến Sơn – Hưng – Tuyên tam tỉnh Tổng đốc hàm nhị phẩm nhưng do tính tình quật cường nên lại nhiều lần bị giáng, trước khi về hưu chỉ nhận chức Thừa Thiên Phủ Doãn hàm tam phẩm)
Từ đó uy tín về y thuật của Ông càng tăng và các bậc mệnh phụ triều đình như Mẹ của Thượng thu Bộ Lại (thượng thư đầu triều, tương đương cấp Thủ tướng – vì Nhà Nguyễn có chế độ không dụng Tể tướng), cũng như Lục bộ, mẹ và vợ của Cửu môn Đề đóc hộ thành (Tư lệnh Bảo vệ kinh đô) và nhiều quan chức cao cấp khác đều là khách thăm bệnh thường xuyên của Ông.
Còn có một câu chuyện hết sức cảm động về y đức và y đạo của Ông. (Câu chuyện này tôi biết khá tường tận vì hồi đó tôi đã tầm 8, 9 tuổi) Năm 1940-41 cả Miền Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ bị thiên tai mất mùa đói kém, ở đồng bằng Bắc kỳ thực dân Pháp thỏa hiệp để cho quân Nhật bắt dân phá mầu trồng đay, dân quê thiếu ăn phải ăn cả các loại củ chuối, cỏ dại, thịt súc vật chết v..v..để sống thoi thóp.
Đầu năm 1942 có bệnh dịch tả hoành hành ở ngoại thành Huế nhất là vùng biển Thuận An vì dân đói thường phải tìm ăn những loại cá chết, ốc chết dạt lên bờ.
Nhà tôi ở Huế thời ấy thường mua cá biển tươi của vài người bán quen từ Cửa Thuận gánh chạy lên. (Thời đó chưa có phương tiện ô tô, xe máy mà cũng chưa có nước đá, máy lạnh nên người buôn cá mua cá ở thuyền trút vào thúng xong phải gánh chạy bộ rất nhanh suốt 12 – 15 km lên Huế để bán, nếu chậm trễ là cá ươn, mất giá). Một hôm từ tờ mờ sáng đã thấy hai ông bán cá quen gọi cửa – tôi không nhớ tên ông chỉ còn nhớ là ông họ VĂN, một dòng họ khá hiếm hoi còn một Ông tên là CỚ, tôi không nhớ họ - Lần này thay vì gánh 2 thúng loại cá lớn như cá chim cá thu thường mang lên thành phố bán…tôi thấy ông gánh một bên là lưng thúng cá “mặn chặn” - một loại cá nhỏ rất rẻ tiền, thường nhà nghèo mới mua làm mắm chứ nhà khá giả ở thành phố không ai ăn – còn bên kia là một bé gái hơn tôi 3, 4 tuổi đen đúa và rất gầy gò.
Gặp Bà nội tôi (là Bà VŨ THỊ CHÂU vợ ông VĂN TỐ) ông bán cá khóc và kể lể: “Nhà ông ta có 8 người, mẹ già, vợ và đứa con út thiếu ăn đã chết đói, bây giờ cả làng phát bệnh dịch tả, cả 3 đứa con còn lại của ông nặng nhẹ đều phát bệnh chắc chỉ chờ chết. Chỉ còn đứa gái thứ hai chưa mắc bệnh nhưng nếu ở nhà thì trước sau cũng chết. Nay ông rứt ruột mang con lên cho nhà tôi nuôi, dù có phải làm tôi đòi khổ sở nhưng may ra còn sống sót. Dịp này biển cũng mất mùa, trai bạn ốm đau chết chóc nên không đi được biển xa đánh cá lớn. lưng thúng cá vụn kia là thu hoạch đánh bắt cả mấy ngày gánh lên để mong đổi lấy vài lon gạo về cho cả nhà húp chút nước hồ”.
Bà tôi đang ngạc nhiên và đắn đo vì thời buổi khó khăn đói kém, thêm một miệng ăn trong nhà đâu phải chuyện dễ dàng, ấy là chưa kể dạo đó nhà tôi còn phải cưu mang nhiều bà con họ hàng ở quê rồi cả những người ăn người làm trong nhà cũng đều đang lâm vào cảnh rất túng thiếu. Ông VĂN TỐ từ nhà trên đi xuống nghe qua câu chuyện, hỏi han ngay đến tình hình bệnh dịch dưới Thuận An. Nghe xong, ông gọi người học trò là Hồng Tâm bảo đi chuẩn bị ngay tất cả các liều thuốc bánh hiện có sẵn – nhà họ Thái vốn có một phương thuốc trị dịch tả gia truyền rất hiệu nghiệm – sắp vào một tay nải đi cùng ông theo người bán cá về làng ngay để cứu bệnh. Ông bảo Bà tôi cùng người nhà ở nhà đi bốc thuốc về chuẩn bị làm gấp mấy trăm liều thuốc nữa để vài hôm sau về lấy tiếp. Ông lại bảo gia đình tôi mang hết gạo dự trữ trong nhà đổ vào hai thúng cho người bán cá gánh về nấu cháo trợ giúp cho bà con trong làng. Hai hôm sau thấy chú Tâm về lấy thuốc rồi lại đi tiếp, lần này thân sinh tôi là VĂN HÒA cũng đi theo xem tình hình nhưng phải về ngay vì còn phải đi làm việc. Mãi hơn nửa tháng sau mới thấy hai thầy trò quay về. Chú Tâm nói rằng, cả làng 10 phần chết 7 nếu thầy trò ông tôi không về kịp thì xem như làng bị xóa sổ. Sau này được biết làng đó lập bài vị của Ông nội tôi thờ sống cạnh bài vị của Thành hoàng làng, xem như người đã có ơn cứu cho làng không bị tuyệt, có ơn tái lập làng. Người con gái ông bán cá tên là VĂN THỊ NGHIÊM sau được Cha mẹ tôi nhận làm con nuôi. Năm sau, Bà nội tôi về quê mang theo Cô Nghiêm và em gái thứ ba của tôi là THÁI THỊ THANH VÂN. Sau này lúc toàn quốc kháng chiến chống Pháp, gia đình tôi chạy về quê ở Yên Thành vẫn xem Cô Nghiêm như con, đến lúc trưởng thành gả chồng về họ ĐẬU tên là ĐẬU VĂN DU ở Xóm Làng. Anh Du sau này đi bộ đội thăng đến cấp Trung tá và là liệt sĩ hy sinh ở chiến trường B, các con cháu đến nay đều đã trưởng thành. Bà NGHIÊM và con cháu vẫn theo cúng giỗ trong nhà thờ như là con đẻ họ Thái.
Lúc ấy phong trào cách mạng đang lên cao, Nhật Pháp xung đột gay gắt, sĩ phu đều muốn chống Pháp, chống đối Triều đình. Ông VĂN TỐ  thường ủng hộ đám thanh niên tân tiến, lơi dụng rượu say làm nhiều bài thơ chửi mắng bọn Pháp và bọn tham quan, chính quyền Pháp và Nam triều đều rất khó chịu nhưng vì uy tín và lòng mến phục của mọi người từ quan đến dân đối với Ông quá lớn nên chúng không dám thẳng tay trừng trị.
Phần Ông cũng chán nản quan trường nên năm 1944 tạ cớ sức khỏe giảm sút mà dâng biểu từ quan và được Triều đình đồng ý chấp thuận, sắc phong lên Quang lộc tự khanh, hàm tam phẩm và tổ chức lễ đưa tiễn rất long trọng. Trong bài thơ lưu giản của Ông viết theo điệu ca trù có câu:
Mười lăm năm Núi Ngự sông Hương,
Ngoảnh mặt lại Lam Hường nhiều chuyện lạ
ngụ ý nói lên phong trào cách mạng lúc đó ở Nghệ An đã sôi nổi hơn rất nhiều so với ở kinh đô Huế.
Những năm cuối đời trở lại quê nhà:
Bảo Đại thứ 20 – 1944 – VĂN TỐ công mới 55 tuổi, chán nản quan trường dâng biểu từ quan xin về hưu sớm trở về sống tại quê cũ  ở Tân Mỹ, Tràng Thành.
Ông vẫn tiếp tục làm thuốc cứu người được mọi người trong hạt tôn quý. Thời ấy Triều đình đã bỏ các khoa thi Hán học đã lâu nhưng nhiều thế gia vọng tộc trong hạt vẫn muốn con cháu được học chữ Hán để duy trì hương hỏa. Nhiều nhà hào phú trong hạt đã thay nhau mời Ông về ngồi mở lớp dạy học tại nhà, dạy chữ Hán và nêu gương đạo đức, số môn sinh theo học trong mấy năm lên đến hàng trăm.
Ngay sau Cách mạng Tháng tám năm 1945, Ông được mời tham gia Mặt trận Việt Minh rồi sau đó được bầu làm Phó Chủ tịch mặt trận Liên Việt huyện Yên Thành, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt xã Tràng Thành. Khi Huyện Yên Thành lập Tòa án nhân dân đầu tiên Ông được bầu làm Hôi thẩm nhân dân.
Sau khi Hòa bình lập lại ở Miền Bắc, năm 1955 Cụ NGUYỄN TRUNG  KHIÊM, một người bạn thâm giao, vốn có học về Y học với Ông, là một thân sĩ tham gia cách mạng rất có tín nhiệm, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao tổ chức thành lập Hội Đông Y Việt Nam. Ông  NGUYỄN đã mời VĂN TỐ công ra Hà Nội để chuẩn bị thành lập Hội. Tuy nhiên việc chưa thành thì sức khỏe Ông bị sa sút, Ông quay về và mất tại quê nhà vào ngày 20 Tháng 7 năm Bính Thân tức là năm 1956
Chính kỵ: ngày 20 tháng 7
Mộ hiện táng tại Nghĩa trang họ Thái xứ Cồn Sùng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét